1. Định hướng
(trang 75, SGK Ngữ văn lớp 8 Tập 2 - Cánh Diều)
1.1. Các em đã được học kĩ năng nghe và tóm tắt nội dung người khác thuyết trình ở Bài 3, Bài 5 và Bài 7. Bài học này tiếp tục rèn luyện kĩ năng nghe và tóm tắt nội dung thuyết trình về một nhân vật lịch sử hoặc một tác phẩm văn học.
1.2. Để nghe và tóm tắt được nội dung người khác giới thiệu về một nhân vật lịch sử hoặc một tác phẩm văn học, các em cần xem lại các yêu cầu đã nêu ở Bài 3, Bài 5, Bài 7 và chú ý thêm:
- Nghe kĩ nội dung giới thiệu về đối tượng mà người nói đã trình bày.
- Ghi lại các ý chính theo hệ thống (ý lớn, ý nhỏ, các ví dụ minh hoạ tiêu biểu,...) mà người trình bày đã nêu lên.
- Trình bày bản tóm tắt ý chính theo từng mức độ
2. Thực hành
Bài tập (trang 75, SGK Ngữ văn lớp 8 Tập 2 - Cánh Diều): Chọn một trong hai đề bài sau:
(1) Nghe và tóm tắt nội dung giới thiệu về nhân vật Trần Bình Trọng với câu nói bất hủ: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”.
(2) Nghe và tóm tắt nội dung giới thiệu về một tiểu thuyết đã học hay đã đọc.
a. Chuẩn bị (với đề 1)
Xem lại nội dung truyện lịch sử Bên bờ Thiên Mạc (Hà Ân) liên quan đến danh tướng Trần Bình Trọng.
- Xem lại mục b) Tìm ý và lập dàn ý ở phần Viết, thêm, bớt các nội dung cho phù hợp với yêu cầu của hoạt động nói và nghe (đối tượng, thời gian,...).
Chú ý các hướng dẫn trong mục 1. Định hướng để nắm được cách tóm tắt ý chính khi nghe.
b) Nói và nghe
Thực hành nghe và ghi lại các ý chính của bài thuyết trình. Bài này tập trung nhiều về kĩ năng nghe và tóm tắt nội dung đã nghe.
Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 6, phần Nói và nghe, mục c (trang 31). bài này, chú ý rèn luyện kĩ năng nghe nhiều hơn.
*Bài nói mẫu tham khảo:
Đề 1:
Trong lịch sử nước Việt ta còn ghi lại rất nhiều câu nói bất hủ của các bậc anh hùng dân tộc, làm rạng danh nước nhà. Một trong những câu nói bất hủ phải kể đến là lời mắng: "Ta thà làm ma nước Nam, chứ không thèm làm vương đất Bắc" của danh tướng Trần Bình Trọng thời nhà Trần.
Trần Bình Trọng sinh năm Kỷ Mùi (1259), là người xã Bảo Thái (nay thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam). Ông vốn là hậu duệ của vua Lê Đại Hành. Do cha Trần Bình Trọng làm quan dưới triều Trần Thánh Tông lập được nhiều công trạng lớn, nên được nhà vua ân sủng ban cho quốc thích (cho mang theo họ vua). Bởi vậy, Trần Bình Trọng mới có họ Trần, thay vì mang họ Lê. Về chuyện này, sách Toàn thư, quyển V, kỷ Nhân Tông hoàng đế có đoạn viết: "Bình Trọng dòng dõi Lê Đại Hành, chồng sau của công chúa Thụy Bảo, do ông cha làm quan đời Trần Thái Tông, nên được cho quốc tính nhà họ Trần".
Câu chuyện Trần Bình Trọng hy sinh oanh liệt sau lời mắng nhiếc lũ giặc ngoại xâm xảy ra dưới thời vua Trần Nhân Tông, trong cuộc chiến chống quân Nguyên - Mông lần thứ 2 do sự chênh lệch quá lớn về quân số, mũi quân đánh chặn của Trần Bình Trọng thất bại, Trần Bình Trọng bị bắt sống. Tuy nhiên, Trần Bình Trọng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ cầm chân địch khi chúng hoàn toàn mất dấu vết nhà Trần sau trận đánh này.
Để moi móc thông tin, tướng giặc đã dùng mọi cách với Trần Bình Trọng, từ dọa dẫm tới mềm mỏng. Nhưng Trần Bình Trọng quyết không nói nửa lời. Cuối cùng, tướng giặc dụ dỗ sẽ xin phong vương nếu Trần Bình Trọng quy hàng, nhưng ông đã khẳng khái thét mắng vào mặt chúng: "Ta thà làm ma nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc". Lời thét mắng ấy thể hiện rõ quan điểm khẳng định Đại Việt là một nước độc lập và có ý coi thường triều đình phương Bắc khi ông chỉ gọi nhà Nguyên Mông là "đất Bắc". Lời thét mắng ấy của Trần Bình Trọng khiến quân giặc giận tím mặt. Chúng giết ông ngay tức khắc. Sử sách còn ghi lại thời điểm ấy là tháng Chạp năm Ất Dậu (1285). Năm ấy, Trần Bình Trọng mới có 26 tuổi. Câu nói của ông đã thể hiện tinh thần bất khuất và tấm lòng yêu nước to lớn của một vị chính nhân quân tử. Câu nói ấy đến ngày nay vẫn còn truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam, để học biết sống và cống hiến cho Tổ quốc.
Nhờ sự chiến đấu anh dũng và sự hy sinh oanh liệt, thà chết chứ không chịu làm lộ thông tin quân sự của triều đình, của Trần Bình Trọng, triều đình nhà Trần mới có thời gian và điều kiện để chuẩn bị lực lượng phản công. Sau đó chỉ vài tháng, quan quân nhà Trần đã dốc toàn lực phản công, đập tan quân Nguyên Mông. Nhiều tướng giặc bị chém đầu tại trận, trong đó có Toa Đô, Lý Hằng, Lý Quán. Riêng Thoát Hoan hoảng sợ phải chui vào ống đồng để tránh tên bắn, bắt quân lính khiêng chạy chối chết về nước.
Cuộc chiến chống giặc Nguyên Mông lần thứ 2 thắng lợi ròn rã nhờ công đóng góp không nhỏ của Trần Bình Trọng. Bởi thế, khi xét công trạng, vua Nhân Tông đã truy phong ông là Bảo nghĩa vương.
Tưởng nhớ công ơn và cảm khí tiết của Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng, ngày nay, tên của ông được đặt cho nhiều đường, phố ở nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước. Riêng ở Hà Nội, tên của Trần Bình Trọng được đặt cho tuyến phố nối từ phố Trần Hưng Đạo tới phố Trần Nhân Tông - hai nhân vật anh hùng cùng thời với Trần Bình Trọng gắn liền với chiến thắng vang dội trong 2 cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông, lần thứ 2 và lần thứ 3.
Đề 2:
Tiểu thuyết Hoàng Tử Bé chính là cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa một phi công phải đáp máy bay xuống sa mạc Sahara cùng với hoàng tử bé đến từ hành tinh B612. Sau nhiều ngày đối mặt với nỗi cô đơn bên cạnh chiếc động cơ hỏng, đang ngủ gật vì mệt, chàng hoàng tử xuất hiện cũng như không ngần ngại yêu cầu anh vẽ một chú cừu cho mình. Từ đó họ ở cạnh nhau như những người bạn, cậu bé khiến viên phi công sau nhiều năm đã lãng quên rằng niềm đam mê hội họa đã cầm lại bút và vẽ theo yêu cầu của cậu.
Hoàng tử bé đã đưa viên phi công quay trở về tuổi thơ, niềm đam mê bị chối bỏ. Để cuối cùng đành từ bỏ giấc mơ và theo đuổi sự nghiệp làm phi công mà cha mẹ anh mong muốn. Nhưng với yêu cầu của cậu bé, chàng phi công như tìm lại được chính mình ở tuổi thơ đã qua, nghe được giọng cười giòn tan, kể cả những giọt nước mắt của cậu bé cũng thật thuần khiết, trong sáng.
Cậu bé kể cho anh nghe về hành tinh B612 của cậu, nơi chỉ có 2 ngọn núi lửa đang hoạt động cùng một ngọn núi lửa đã tắt. Công việc mỗi ngày của cậu ở đó là nạo vét những ngọn núi lửa cũng như phân biệt những mầm cây bao báp với mầm cây hoa hồng. Sau đó bỏ chúng bởi cây bao báp chính là 1 mối hiểm họa có thể xuyên thủng hành tinh của cậu nếu chúng lớn lên.
Một ngày có một hạt mầm hoa hồng chẳng biết từ đâu bay đến hành tinh B612 sau đó nở ra một bông hoa vô cùng xinh đẹp. Hoàng tử bé đem lòng yêu nàng cũng như sẵn sàng chiều chuộng theo tất cả những yêu cầu của nàng. Tuy nhiên bông hoa kiêu kỳ ấy cũng khiến cho hoàng tử bé không khỏi buồn phiền, tới một hôm cậu quyết định rời khỏi hành tinh cùng với chuyến di cư của bầy chim.
Cậu lần lượt đi qua 6 hành tinh cũng như gặp gỡ những người kỳ lạ. Đó là một ông vua không có thần dân, ông hợm hĩnh thích được hoan hô hay một ông nát rượu, một nhà buôn mở tài khoản sở hữu các vì sao, một người thắp đèn rồi tắt đèn liên tục tuân theo mệnh lệnh, một nhà địa lý chỉ ngồi bên bàn sách mà không bao giờ ra ngoài khám phá thế giới.
Hoàng tử bé đã chọn trái đất là điểm đến cuối cùng sau khi gặp một con rắn, một bông hoa tầm thường. Cậu đã lạc vào một vườn hoa hồng có đến hơn năm nghìn bông hoa giống nhau đang khoe sắc. Vì vậy cậu vô cùng thất vọng vì bông hoa của cậu đã lừa dối rằng cô ấy là duy nhất. Thất vọng, hoàng tử bé nằm xuống cỏ và khóc rồi một chú cáo mà hoàng tử nhận là người bạn thực thụ đa dạy cho hoàng tử bé hiểu rằng bông hoa của chàng là duy nhất. Bởi chính cậu đã chăm sóc, tưới nước, bắt sâu cũng như dùng lồng kính bảo vệ nàng. Viên phi công chính là người ở bên cạnh cậu lâu nhất, lắng nghe câu chuyện của cậu nhiều nhất. Khi cả 3 rơi vào tình trạng thiếu nước trầm trọng, hoàng tử bé đã nhờ con rắn độc cắn mình để trút bỏ lại thân xác cũng như trở về hành tinh B612. Đọc hết những con chữ trong cuốn sách, có thể nhận ra được rằng ý nghĩa cuối cùng tác giả muốn nhắn gửi tới ai đã và đang đọc cuốn sách này: Nếu muốn thực sự có được thứ gì đó bạn phải yêu thương nó bằng cả trái tim. Khi nhìn lại sự việc bằng con mắt của tình thương ta sẽ nhận ra có những điều thật giản đơn nhưng lại không dễ phát hiện. Mỗi người sẽ có một cây hoa của riêng mình, một ngôi sao của riêng mình, không giống ai.
c) Kiểm tra và chỉnh sửa
Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở Bài 6, phần Nói và nghe, mục d (trang 32) và đối chiếu với dàn ý đề văn đã làm ở bài này.
Giaibaitap.me
1. Đoạn chữ in nhỏ ở phía trên văn bản Tức nước vỡ bờ có nhiệm vụ gì? 4. Nhận xét nào sau đây đúng với diễn biến thái độ của chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ? 5. Đoạn trích Tức nước vỡ bờ không nhằm mục đích nào sau đây?
1. Văn bản Vẻ đẹp của bài thơ “Cảnh khuya” bàn về vấn đề gì? Dựa vào đâu để em có thể nhận ra nhanh nhất điều này? 2. Bài thơ Cảnh khuya được tác giả Lê Trí Viễn phân tích theo trình tự nào? Nêu tác dụng của việc phân tích theo trình tự đó
1. Dựa vào nhan đề và bố cục của văn bản, hãy chỉ ra luận đề và những luận điểm được triển khai trong văn bản. 2. Đọc kĩ phần (2) của văn bản và trả lời các câu hỏi sau (có thể dùng lời văn, bảng biểu hay sơ đồ tư duy): a. Luận điểm của phần này có mối quan hệ như thế nào với luận đề?
1. Tìm thành phần gọi – đáp, thành phần cảm thán trong các câu dưới đây. Nêu ý nghĩa của mỗi thành phần đó. 2. Tìm thành phần phụ chú trong những câu dưới đây. Dấu hiệu hình thức nào giúp em nhận biết thành phần đó? Các thành phần phụ chú đó được dùng làm gì?