Câu 1: Từ lời của Kiều nói với Thúc Sinh, ta thấy Kiều là người trọng nghĩa. Nàng trân trọng việc Thúc Sinh đã chuộc mình ra khỏi lầu xanh.Việc hai người không vẹn tình vợ chồng là do Hoạn Thư ghen tuông. Bởi thế mà nàng vẫn thấy cần báo ân cho Thúc Sinh với lễ vật rất hậu: gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân. Trong khi báo ân Thúc Sinh, Kiều nhắc đến Hoạn Thư chính vì bao nhiêu oan khổ của nàng đều do Hoạn Thư gây ra. Nàng cũng báo trước cho Thúc Sinh rằng Hoạn Thư là kẻ quỷ quái tinh ma, thị sẽ bị trừng phạt.
Những từ ngữ Kiều dùng với Thúc Sinh là những từ Hán Việt trang trọng: nghĩa, chữ tòng, cố nhân, tạ,… Trong khi đó, khi nói về Hoạn Thư thì lời lẽ nôm na, dùng thành ngữ dân gian: quỷ quái tinh ma, kẻ cắp bà già, kiến bò miệng chén. Đây là hai thái độ, một đằng là với người được báo ân thì trịnh trọng, phù hợp với tính cách của một nho sinh ưa chữ nghĩa. Còn với Hoạn Thư thì lời lẽ nôm na, theo kiểu dân gian. Hành động trừng phạt theo quan điểm nhân dân được diễn đạt bằng lời ăn tiếng nói của nhân dân.
Câu 2: Giọng điệu của Kiều trong doạn thơ báo oán thể hiện sự mỉa mai. Hoạn Thư bị đưa đến như là một phạm nhân, thế nhưng Kiều vẫn chào hỏi, lại dùng từ xưng hô cũ “tiểu thư” trong khi ngôi vị của hai người đã hoàn toàn thay đổi. Sau sự mỉa mai, Kiều đã chỉ đích danh con người Hoạn Thư là con người ghê gớm xưa nay hiếm trong cả giới phụ nữ (Đàn bà dễ có mấy tay – Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan). Liên tiếp các từ ngữ dùng theo nghệ thuật hoán dụ (tay, mặt, gan) Kiều đã khẳng định Hoạn Thư là con người ghê gớm hiếm có từ xưa đến nay. Càng cay nghiệt, càng gây nhiều oan trái thi tất nhiên sẽ càng phải hứng chịu những trừng phạt song phẳng từ phía người bị hại. Thái độ của Kiều là dứt khoát, rõ rang. Nàng sẽ thẳng tay trừng trị Hoạn Thư.
Câu 3: Trước thái độ của Kiều, Hoạn Thư đã vô cùng hoảng hốt và sợ hãi. Sợ đến nước “hồn lạc, phách xiêu”. Nhưng sau phút choáng váng, Hoạn Thư đã lấy lại được bình tĩnh, thể hiện sự khôn ngoan. Đầu tiên là nói về phận đàn bà. Nêu lên phận đàn bà, Hoạn Thư – tội nhân đưa Thúy Kiều – quan tòa về vị trí là người cùng giới, cùng chịu những thiệt thòi. Tiếp theo, Hoạn Thư nêu chuyện ghen tuông là chuyện không thể tránh khỏi. Như vậy tội của Hoạn Thư là tội của cả giới phụ nữ. Nếu kết tội ghen thì phải kết tội cả giới phụ nữ. Sau đó Hoạn Thư mới kể đến ơn của mình với Kiều: chấp nhận cho ra gác Quan Âm để biết kinh, khi Kiều trốn đi thì không đuổi theo nữa. Hoạn Thư còn khéo lấy lòng rằng thị vẫn kính yêu, nhưng vì chung chồng nên khó mà chiều. Cuối cùng, Hoạn Thư đã thừa nhận là mình có tội “gây chuyện chông gai”, và xin mở lượng khoan hồng.
Lí lẽ của Hoạn Thư chặt chẽ, khôn ngoan, đã tác động mạnh đến Thúy Kiều. Từ chỗ quyết tâm trừng phạt, báo thù, Kiều đã tha bổng cho Hoạn Thư.
Qua lí lẽ của Hoạn Thư, ta càng thấy Hoạn Thư là người khôn ngoan, đúng như lời luận tội, nhưng cũng có thể hiểu là lời đánh giá chính xác của Thúy Kiều: Đàn bà dễ có mấy tay – Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan.
Câu 4: Thúy Kiều tha bổng Hoạn Thư vì mấy lí do. Thứ nhất là lời lẽ khôn ngoan của Hoạn Thư khi trình bày lí do để cãi tội. Ghen là chuyện thường tình, có công với Kiều, vẫn kính yêu Kiều, nhưng không thể đối xử khác trong tình huống chồng chung. Thứ hai là Hoạn Thư đã thừa nhận tội lỗi của mình. Thứ ba là thị đã xin mở lượng khoan hồng: “Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng”. Trong tình huống đó, nếu Kiều vẫn không tha cho Hoạn Thư thì nàng sẽ mang tiếng là người nhỏ nhen, là người cố chấp khi kẻ tình địch đã biết nhận lỗi, đã cất lời xin. Kiều là con người rộng lượng, chính vì vậy nàng tha bổng Hoạn Thư. Điều này thể hiện tấm lòng nhân đạo và trí tuệ sáng suốt của Nguyễn Du. Ông đã không để Kiều trừng phạt Hoạn Thư như trong sách của Thanh Tâm Tài Nhân. Và vì thế nàng Kiều của Nguyễn Du nhân hậu và độ lượng hơn.
Câu 5: Thúy Kiều là người trọng ân nghĩa. Những ai đã giúp đỡ nàng đều được nhớ tới và đền ơn xứng đáng. Thúc Sinh là một ví dụ. Mặc dù chàng Thúc nhu nhược, thấp cơ thua trí đàn bà, đã không bảo vệ được nàng, nhưng nàng vẫn nhớ ơn và đền ơn. Đối với Hoạn Thư, nàng kiên quyết trừng phạt. Nhưng trước thái độ khôn ngoan kêu ca rất “đến mực, phải lời”, Kiều đã tha bổng. Nàng tha Hoạn Thư cho thấy Kiều là người không hẹp hòi, không nhỏ nhen, không cố chấp. Sự rộng lượng của nàng càng làm cho người ta, kể cả Hoạn Thư – kẻ thù, phải tâm phục, khẩu phục.
Trước “tình thế đảo ngược”, Hoạn Thư - người từng hành hạ Thúy Kiều đến ê chề, nhục nhã, người từng “bề ngoài thơn thớt nói cười – Mà trong nham hiểm giết người không dao”, nay vẫn thừa lọc lõi, “khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời”, bản chất quỷ quyệt giấu trong vẻ “hồn lạc phách xiêu”, khiến Kiều phải xuôi lòng tha bổng.
Giaibaitap.me