Câu 1:
Tính hình tượng của ngôn ngữ nghệ thuật thường được tạo ra bởi rất nhiều những phương tiện tu từ, nhưng phổ biến và hiệu quả nhất vẫn là các biện pháp như: ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng, nhân hóa, thậm xưng, ... và đặc biệt là cách nói hàm ẩn trong những ngữ cảnh tu từ.
Ví dụ:
- Biện pháp nhân hóa:
Bỗng nhận ra hương ổi,
Phả vào trong gió se.
Sương chùng chình qua ngõ,
Hình như thu đã về.
(Sang thu, Hữu Thỉnh)
- So sánh:
Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi,
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.
(Ca dao)
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thốt như mưa ruộng cày
(Ca dao)
Hình tượng giọt mồ hôi hiện lên một cách sinh động qua cách so sánh độc đáo của tác giả dân gian. Hình tượng này trở nên có sức biểu đạt lớn, không chỉ là vất vả của người thợ cày mà còn khái quát về sự vất vả, cực nhọc của những người làm ra hạt gạo.
- Ẩn dụ:
Ngày ngày mặt trời đi qua bên lăng,
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
(Viếng lăng Bác, Viễn Phương)
- Thậm xưng:
Con rận bằng con ba ba,
Đêm nằm nó ngáy cả nhà thất kinh.
(Ca dao hài hước)
Câu 2:
Trong ba đặc trưng của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, tính hình tượng được coi là đặc trưng cơ bản vì:
- Tính hình tượng vừa là mục đích vừa là phương tiện sáng tạo của nghệ thuật.
+ Mục đích của sáng tạo nghệ thuật vừa là phương tiện sáng tạo của nghê thuật nhằm phản ánh thế giới khách quan và sự cảm nhận chủ quan về thế giới ấy của người nghệ sĩ.
+ Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Nhà văn sử dụng chất liệu ngôn từ làm phương tiện để xây dựng hình tượng nghệ thuật. Vì thế, tính hình tượng là đặc trưng cơ bản của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
- Ngoài ra tính hình tượng còn bao quát hai đặc trưng kia:
+ Bản thân ngôn ngữ chứa đựng các yếu tố gây cảm xúc và tạo truyền cảm.
+ Trong khi xây dựng hình tượng, thông qua việc sử dụng ngôn ngữ, nhà văn đã bộc lộ cá tính sáng tạo của mình.
Câu 3:
a. Có thể lựa chọn các từ: thấm đượm, canh cánh.
b. Lựa chọn các từ:
- Dòng 3: rắc
- Dòng 4: Giết
Câu 4:
Có thể so sánh trên những nét sau:
- Về từ ngữ: cách lựa chọn từ ngữ để tạo hình tượng mùa thu ở ba bài thơ của ba tác giả là khác nhau.
+ Nhóm các từ ngữ dùng để xây dựng nên hình tượng mùa thu trong bài Thu vịnh của Nguyễn Khuyến: trời thu xanh ngắt, cần trúc lơ phơ, gió hắt hiu, nước biếc, khói phủ, bóng trăng..
+ Chất liệu ngôn từ trong bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư: lá thu rơi, nai vàng, lá vàng khô.
+ Chất liệu ngôn từ trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi: núi đồi, gió thổi, rừng tre, trời thu, trong biếc.
Có thể nhận thấy rằng sự khác nhau về ngôn ngữ giữa ba bài thơ của ba tác giả là ở chỗ: Bài Thu vịnh sử dụng những từ ngữ có tính chất ước lệ, quen thuộc mang những dấu ấn của thi pháp văn học trung đại. Trong khi đó các từ ngữ được dùng để xây dựng hình tượng mùa thu trong hai bài thơ Đất nước và Tiếng thu mang tính chất tả thực nhiều hơn, mới lạ hơn.
- Về nhịp điệu:
+ Nhịp thơ của bài Thu vịnh là nhịp: 4/3 hoặc 2/2/3
+ Nhịp thơ của bài Tiếng thu: 3/2
+ Nhịp thơ của bài Đất nước: 3/2, 3/4, 2/2/2, 2/3, 2/2/2.
Thu vịnh và Tiếng thu được làm theo những thể thơ có quy định khá chặt chẽ về nhịp điệu. Vì thế nhịp của các câu thơ tương đối thống nhất. Trong khi đó, bài Đất nước làm theo thể thơ tự do nên cách ngắt nhịp trong mỗi câu thơ tương đối linh hoạt và đa dạng.
- Hình tượng mùa thu ở ba tác giả không cùng thời đại nên cũng có những điểm khác nhau (hình tượng mang tính ước lệ hoặc mang tính chân thực như trên đã nói). Cũng từ sự khác nhau về hình tượng và cách diễn đạt, khác nhau về hình ảnh, ngôn ngữ,… nên dấu ấn phong cách cá nhân ở mỗi tác giả cũng khác nhau.
Giaibaitap.me