Câu 1 (trang 39 sgk Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo tập 2)
Bài văn phân tích tác phẩm văn học nào?
Lời giải:
Tác phẩm: Gió lạnh đầu mùa (Thạch Lam)
Câu 2 (trang 39 sgk Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo tập 2)
Phần mở bài nêu những nội dung gì?
Lời giải:
Những nội dung của phần mở bài:
- Giới thiệu tác phẩm, tác giả.
- Khái quát những nét đặc sắc về chủ đề và nghệ thuật của tác phẩm.
Câu 3 (trang 39 sgk Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo tập 2)
Phần thân bài có mấy luận điểm? Người viết đã sử dụng những lí lẽ, bằng chứng nào để làm sáng tỏ các luận điểm đó?
Lời giải:
|
Luận điểm 1: Chủ đề truyện |
Luận điểm 2: Đặc sắc nghệ thuật |
Lí lẽ |
Gió lạnh đầu mùa phủ khắp không gian, tạo nên một không khí rét mướt, nhưng điều đọng lại trong tôi vẫn là tình yêu lan tỏa |
- Cốt truyện: Cái bình dị, quen thuộc dễ dàng khơi dậy sự đồng cảm nơi người đọc - Miêu tả nội tâm: Tình thương ấy thể hiện tâm hồn cao đẹp, biết xót xa, cảm thông cho mảnh đời khốn khó. Đó là lí do tôi trân trọng, quý mến nhân vật Sơn - Chi tiết đặc sắc: Có lẽ, cái bà cho đi không chỉ là chiếc áo bông giữa ngày buốt lạnh, mà còn là bài học sâu sắc về lòng vị tha, về hơi ấm tình người |
Bằng chứng |
Tình người kết đọng trong hành động của Sơn và Lan, khi mang chiếc áo bông cũ tặng cho Hiên, người bạn nhà nghèo không có áo ấm mặc trong mùa rét |
- Cốt truyện: Sự việc hai đứa trẻ nhà khá giả động lòng thương, mang cho người bạn khó khăn chiếc áo vào mùa rét - Miêu tả nội tâm: Tấm lòng nhân hậu giúp Sơn hận ra những đứa trẻ nhà nghèo hôm nay “môi chúng tím lại, và qua những chỗ áo rách, da thịt thâm đi”, nhận ra Hiên “co ro đứng bên cột quán, chỉ mặc manh áo rách tả tơi” mà “động lòng thương” - Chi tiết đặc sắc: Một trong những chi tiết đặc sắc mà tôi tâm đắc là lời nói của người mẹ ở cuối truyện: “Hai con tôi quý quá, dám tự do lấy áo đem cho người ta mà không sợ mẹ mắng ư?” |
Câu 4 (trang 39 sgk Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo tập 2)
Phần kết bài có mấy ý?
Lời giải:
- Phần kết có hai ý:
+ Ý kiến về chủ đề và giá trị của một vài nét đặc sắc nghệ thuật.
+ Cảm xúc về tác phẩm.
Câu 5 (trang 39 sgk Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo tập 2)
Người viết đã sử dụng các phương tiện liên kết nào để giúp người đọc nhận ra mạch lập luận của bài viết?
Lời giải:
- Phép nối: Và, mà
- Phép lặp: Yêu thương.
- Phép thế: “Đó” thế cho Tình thương
Câu 6 (trang 39 sgk Ngữ văn 8 Chân trời sáng tạo tập 2)
Viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện mà em yêu thích.
Lời giải:
Bài mẫu 1:
Viết về người phụ nữ - Một đề tài không còn mới lạ trong văn học, ta có thể kể đến các tác giả như nổi tiếng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm… đây là những cây bút tiêu biểu cho mảng đề tài này. Bên cạnh đó Nguyễn Dữ cũng là một gương mặt tiêu biểu ngòi bút nhân văn của ông luôn hướng về người phụ nữ. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Nguyễn Dữ. Qua câu chuyện, nhà văn đã xây dựng hình ảnh Vũ Nương với cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ.
Nhà văn Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ XVI. Ông sống ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngắn. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi truyện trên.
Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết. Ngay từ đầu truyện Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người đẹp nết “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung chính là vẻ bề ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng. Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc họa với những nét chân dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội phong kiến. Song có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau:
Vũ Nương là một người phụ nữ có số phận oan nghiệt. Số phận bi kịch, chồng đi lính trở về - nghe con - một mực nghi oan - đánh đuổi đi. Hết lời thanh minh, bày tỏ nỗi lòng qua lời than rồi tự vẫn. Cái chết của nàng, nàng tắm gội chay sạch, than, thể hiện hành động có suy tính. Phản kháng chế độ phong kiến nam quyền bất công. Nguyên nhân trực tiếp là lời nói ngây thơ của bé Đản. Nguyên nhân gián tiếp, Trương Sinh đa nghi, hay ghen, gia trưởng, thô bạo, thiếu niềm tin và tôn trọng phụ nữ, hôn nhân không bình đẳng: sự rẻ rúng của con nhà hào phú với con nhà kẻ khó. Xã hội phong kiến hà khắc, trinh tiết hơn mạng sống, chiến tranh phi nghĩa. Kết thúc “Chuyện người con gái Nam Xương” bằng chi tiết kì ảo - Vũ Nương trở về - tạ từ - biến mất đã hoàn thiện vẻ đẹp Vũ Nương, nhưng không giảm đi tính bi kịch.
Thân phận của Vũ Nương cũng là thân phận của biết bao người phụ nữ trong xã hội xưa:
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Nhân vật Vũ Nương được đặt vào nhiều tình huống, từ đó, thể hiện số phận bất hạnh và những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật. Chi tiết chọn lọc, ngôn ngữ đối thoại và tự bạch phù hợp, yếu tố hoang đường, kì ảo mang đặc trưng của thể loại truyền kì và thể hiện ước vọng của nhân dân về kết thúc có hậu cho số phận nhân vật.
Bài mẫu 2:
“Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
Nhà thơ Thanh Hải đã từng viết lên những dòng thơ xúc động về tuổi trẻ và trách nhiệm cống hiến, tự nguyện lấy tuổi trẻ của mình để dâng cho đời, dâng cả “mùa xuân nho nhỏ” của mình cho đất nước, cho quê hương. Và rồi có một “mùa xuân nho nhỏ” tuổi 20 lặng lẽ hiến dâng cho đời tuổi trẻ, công sức và trí tuệ của mình cho đất nước như thế trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.
Truyện ngắn là kết quả chuyến đi lên Lào Cai hè 1970 của tác giả. Truyện từ tập “Giữa trong xanh” in năm 1972. Tác phẩm ca ngợi những người lao động như anh thanh niên làm công tác khí tượng và cái thế giới của những con người như anh. Tình huống được Nguyễn Thành Long xây dựng nên là cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ và tình cờ của anh thanh niên làm việc một mình trên trạm khí tượng với bác lái xe và hai hành khách trên chuyến xe ấy. Nhân vật chính của tác phẩm là anh thanh niên - người được hiện lên một số nét đẹp về phẩm chất: suy nghĩ đẹp, hành động đẹp và phong cách sống đẹp nhưng chưa được xây dựng tính cách hoàn chỉnh và chưa có cá tính nổi bật. Các nhân vật phụ có vai trò làm nổi bật lên nhân vật chính, các nhân vật thì thường không có tên và đó cũng chính là dụng ý của nhà văn khi ông muốn nói đến những người vô danh đang ngày đêm thầm lặng, say mê cống hiến cho quê hương, đất nước.
Anh thanh niên 27 tuổi làm việc một mình trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét. Quanh năm suốt tháng làm việc với sương mù và cây cỏ. theo như lời giới thiệu của anh lái xe thì anh là người “cô độc nhất thế gian”. Anh thèm người đến mức từng chặt cây ngáng đường xe chạy chỉ để được trông và nghe tiếng người nói mà thôi. Công việc chính của anh là anh làm công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu. công việc hằng ngày chỉ quanh quẩn với mấy chiếc máy ngoài vườn với nhiệm vụ đo lượng nắng, đo gió, đo mưa và tính giây, đo chấn động mặt đất, dự báo trước thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất và chiến đấu, công việc đòi hỏi tính phải chính xác, có tinh thần trách nhiệm cao.
Tuy vậy, dù công việc có nhàm chán và tẻ nhạt lại còn cô đơn một mình nhưng anh chưa bao giờ cảm thấy cô đơn và buồn, anh luôn nghĩ rằng “ta với công việc là đôi, công việc gắn liền với việc của bao nhiêu anh em, đồng chí đang làm dưới kia, công việc gian khổ thế đấy nhưng cứ cất nó đi cháu đến chết mất”. Điều này cho thấy anh là con người sống và chiến đấu hết mình, không bao giờ cho mình được nghỉ ngơi, bởi công việc là niềm vui, là trách nhiệm, là nghĩa vụ mà anh đã tự hứa với đất nước.
Anh là người tràn trề nghị lực, vượt qua mọi cô đơn, gian khổ, gắn bó với công việc. 4 năm nay anh chưa một lần nghỉ phép về nhà, chưa bỏ sót lấy một lần nào việc bỏ sót những con số để báo cáo về cơ quan cho anh em, đồng đội, đồng nghiệp phân tích và tính toán. Anh là người yêu sách và ham đọc sách, anh không cảm thấy cô đơn vì biết tổ chức, sắp xếp cuộc sống của mình khoa học, trồng hoa, nuôi gà, trồng cây thuốc quý, nhà cửa ngăn nắp, gọn gàng.
Ngoài ra, anh còn là người khiêm tốn, thành thực, là người ân cần, chu đáo, hiếu khách, anh cảm thấy vui sướng khi việc của mình làm không những góp phần cho sản xuất và còn đóng góp cho việc đấu tranh chống Mỹ thắng lợi. Anh thanh niên là tiêu biểu cho hàng ngàn thanh niên ngày đêm thầm lặng cống hiến cho đất nước.
Tác giả đã tài tình xây dựng tình huống truyện hợp lý, cách kể chuyện tự nhiên, có sự kết hợp giữa tự sự, miêu tả và bình luận. Nguyễn Thành Long đã góp một tiếng nói ca ngợi cuộc sống và tái hiện một cách đầy đủ vẻ đẹp của con người qua nhân vật anh thanh niên. Khẳng định con người lao động có ý nghĩa thầm lặng, niềm hạnh phúc của con người trong lao động có ích.
Trong không khí đất nước đang náo nức và tưng bừng, phấn khởi để xây dựng và phát triển đất nước trong thời bình theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là một thanh niên của thế hệ mới, chúng ta cần phải ra sức học tập và lao động hăng say để có thể đưa đất nước đi lên, sánh vai cùng với 5 châu bốn biển trên thế giới được.
Với nhan đề vừa mâu thuẫn nhưng lại vô cùng hợp lý, “lặng lẽ” những con người nơi đây đang âm thầm và làm việc một cách khẩn trương, để kịp hoàn thành nhiệm vụ, lao động một cách hăng say, nhiệt huyết của tuổi trẻ, công việc thầm lặng của họ lại có ý nghĩa lớn lao, đáng được tôn vinh. Truyện ngắn là tiếng nói, là bản hùng ca nhưng âm thầm, lặng lẽ, để mọi người hiểu và yêu mến những con người này thôi, tác giả hay anh thanh niên chưa bao giờ nghĩ mình sẽ được đền đáp, công việc của mình lại có ý nghĩa to lớn như vậy.
Bên cạnh nhân vật chính thì còn có sự xuất hiện của các nhân vật khác, đó là bác lái xe, cô kỹ sư trẻ, bác họa sĩ. Truyện được kể theo ngôi kể thứ ba nhưng lại được nhìn theo điểm nhìn của ông họa sĩ. Hầu như người kể chuyện đã nhập vào điểm nhìn và tư tưởng của ông họa sĩ để quan sát và miêu tả cảnh thiên nhiên. Qua cảm xúc và suy nghĩ của ông họa sĩ thì nhân vật anh thanh niên được hiện lên rõ nét, đẹp hơn và có chiều sâu về tư tưởng.
Cô kỹ sư cũng là một hình tượng đẹp, một bức chân dung sáng ngời về tuổi trẻ tài cao và dám chinh phục ước mơ của mình. Trong cuộc gặp gỡ với anh thanh niên, những điều anh kể, những gì cô nghe thấy, khiến cô gái cảm thấy “bàng hoàng” cô hiểu thêm về cuộc sống phải sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của anh thanh niên. Về thế giới của những người như anh. Đây là cái “bàng hoàng” lẽ ra cô nên biết từ lâu mà giờ cô mới biết, nó giúp cô đánh giá đúng hơn về mối quan hệ nhạt nhẽo mà cô đã từ bỏ. Với cô, anh thanh niên giống như là người đi trước, khiến cô cảm thấy vững vàng hơn, tự tin hơn trên hành trình mà cô đã chọn, bên cạnh sự bàng hoàng thì đó là sự hàm ơn, nó không phải chỉ vì bó hoa mà còn vì một “bó hoa nào khác, bó hoa của một háo hức và hạnh phúc ngẫu nhiên anh cho thêm cô”.
Qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” ta thấy được tinh thần yêu nước, sẵn sàng hy sinh tuổi trẻ của mình để cống hiến trí tuệ và sức lực của mình vào sự nghiệp chung của đất nước. Những lời thơ của Tố Hữu là lời đúc kết về con đường mà thế hệ thanh niên chúng ta đang đi:
“Hỡi những chàng trai, những cô gái yêu
Trên những tầng mây, những tầng núi đá
Hai bàn tay ta làm nên tất cả”
Giaibaitap.me
Soạn bài Ôn tập trang 43 SGK Ngữ Văn 8 - Chân trời sáng tạo tập 2. Em thích nhất truyện nào trong ba truyện Bồng chanh đỏ, Bố của Xi-mông, Cây sồi mùa đông? Vì sao?
Soạn bài Chuyến du hành về tuổi thơ trang 46, 47, 48 SGK Ngữ Văn 8 - Chân trời sáng tạo tập 2. Tìm đọc Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ của Nguyễn Nhật Ánh và chia sẻ với bạn những cảm nhận của em về tác phẩm này.
Soạn bài "Mẹ vắng nhà" - Bộ phim tuyệt đẹp về những đứa trẻ thời chiến tranh trang 49, 50, 51 SGK Ngữ Văn 8 - Chân trời sáng tạo tập 2. Kể tên một bộ phim thiếu nhi mà em yêu thích nhất. Vì sao em yêu thích bộ phim đó?
Soạn bài Tình yêu sách trang 52, 53 SGK Ngữ Văn 8 - Chân trời sáng tạo tập 2. Chi tiết: “Hình ảnh Giăng Van-giăng, Phăng-tin, Cô-dét, Ga-vơ-rốt cứ lùng lũng đi lại, nói năng, buồn vui, đau khổ ngay trước mặt tôi kia” thể hiện điều gì về nhân vật “tôi”