Trang chủ
Loigiaihay.com 2024

Đã cập nhật bản mới với lời giải dễ hiểu và giải thêm nhiều sách

Xem chi tiết
Bình chọn:
5 trên 1 phiếu

Soạn văn lớp 11

Soạn văn bài Ôn tập phần văn học,SGK Ngữ văn 11 tập 1.Câu 1. a) Sự phân hóa phức tạp của nền văn học Việt Nam từ đầu TKXX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 có sự phân hoá phức tạp thành nhiều dòng,

Câu 1:

a) Sự phân hóa phức tạp của nền văn học Việt Nam từ đầu TKXX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 có sự phân hoá phức tạp thành nhiều dòng, vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung cho nhau để cùng phát triển. Nguyên nhân là do điều kiện hoàn cảnh đất nước: bị thực dân xâm lược cùng các phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc đồng thời dẫn đến sự khác nhau về khuynh hướng thẩm mĩ và quan điểm nghệ thuật cũng như thái độ chính trị và cách nhìn về mối quan hệ giữa chính trị với văn học của người cầm bút nên đã hình thành nên 2 dòng văn học đó là: công khai và không không khai.

- Những điểm khác nhau của 2 dòng văn học đó là:

+ Văn học công khai: văn học hợp pháp và tồn tại trong vòng pháp luật của chính quyền thực dân phong kiến. Nền văn học công khai phân hóa thành nhiều dòng, trong đó nổi lên hai dòng chính: văn học lãng mạn và văn học hiện thực.

+ Bộ phận văn học bất hợp pháp gồm thơ văn cách mạng, thơ ca trong tù, thơ văn Đông Kinh nghĩa tục, thơ văn thời Mặt trận Dân chủ Đông Dương…

b)

- Văn học từ đầu TK XX đến 1945, đặc biệt là từ đầu những năm 30 trở đi đã phát triển hết sức nhanh chóng. Chỉ trong vòng hơn một thập niên các bộ phận, các xu hướng văn học đều vận động, páht triển với tốc độ rất khẩn trương mau lẹ. Điều đó được thể hiện qua sự phát triển của các tác giả, các tác phẩm, sự đổi mới các thể loại văn học.

- Nguyên nhân của sự phát triển mau lẹ:

+ Sự thúc bách của thời đại (lúc này văn chương trở thành một thứ hàng hoá và viết văn là một nghề có thể kiếm sống).

+ Nhân tố quyết định chính là sự vận động tự thân của nền văn học dân tộc (nhân tố quyết định)

+ Do sự thức tỉnh và trỗi dậy mạnh mẽ của cái tôi cá nhân ở bộ phận thanh niên trí thức sau hàng trăm năm bị kìm hãm. Chính cái tôi này là một động lực tạo nên sự phát triển nhan chóng của những thành tựu trong giai đoạn văn học này.

+ Sức sống văn hoá mãnh liệt mà hạt nhân là lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, biểu hiện rõ nhất là sự trưởng thành và phát triển của tiếng Việt và văn chương Việt.

Câu 2:

a) Sự khác nhau giữa tiểu thuyết hiện đại và trung đại đó là:

- Tiểu thuyết trung đại: thường vay mượn đề tài, cốt truyện của văn học Trung Quốc; tập trung vào việc xây dựng cốt truyện li kì, hấp dẫn; kết cấu theo kiểu chương hồi và theo công thức; kết thúc có hậu; truyện được trần thuật theo trình tự thời gian; nhân vật thường phân tuyết rạch ròi; câu văn theo lối biền ngẫu…

+ Chữ Hán, chữ Nôm

+ Chú ý đến sự việc, chi tiết.

+ Cốt truyện đơn tuyến.

+ Cách kể theo trình tự thời gian.

+ Tâm lí, tâm trạng nhân vật sơ lược.

+ Ngôi kể thứ 3.

+ Kết cấu chương hồi.

- Tiểu thuyết hiện đại không theo những lối mòn cũ. Tiểu thuyết hiện đại lấy tính cách nhân vật làm trung tâm, chú trọng tính cách hơn là cốt truyện, đi sâu và thế giới nội tâm nhân vật. Tiểu thuyết trần thuật theo thời gian tự nhiên mà rất linh hoạt; kết thúc thường không có hậu; bỏ những ước lệ, dùng bút pháp tử thực; lời văn tự nhiên, gần với cuộc sống hàng ngày.
+ Chữ quốc ngữ.

+ Chú ý đến thế giới bên trong của nhân vật.

+ Cốt truyện phức tạp, đa tuyến.

+ Cách kể theo trình tự thời gian, theo sự phát triển của tâm lí, tâm trạng nhân vật.

+ Tâm trạng, tâm lí nhân vật phức tạp.

+ Ngôi kể thứ 3, thứ nhất, kết hợp nhiều ngôi kể.

+ Kết cấu chương đoạn.

b) Những yếu tố trung đại còn tồn tại trong “Cha con nghĩa nặng” : Còn chú ý nhiều đến sự kiện, chi tiết. Tâm lí nhân vật sơ sài, thể hiện còn đơn giản. Kể chuyện hoàn toàn theo thời gian, sự việc. Ngôi kể thứ 3, xen những lời bình luận còn vụng về, thiên nhiên còn chưa gắn bó, hài hoà với nhân vật.

Câu 3:

Tình huống là các quan hệ, những hoàn cảnh, những nhà văn sáng tạo ra để tạo nên sự hấp dẫn, sức sống và thế đứng của truyện. Sáng tạo tình huống đặc sắc là vấn đề then chốt của nghệ thuật viết truyện. Tình huống truyện trong một số tác phẩm:

- “Vi hành”: tình huống nhầm lẫn của đôi trai gái người Pháp trong chuyến tàu điện ngầm. Nhờ sự nhầm lẫn mà hình ảnh Khải Định được miêu tả vừa rất khách quan lại vừa hài hước.

- “Tinh thần thể dục”: mâu thuẫn giữa hình thức và nội dung, mục đích và thực chất tốt đẹp và tai hoạ. Bắt buộc dân xem đá bóng, dân trốn chạy, thoái thác.

- “Chữ người tử tù”: tình huống éo le, tử tù sắp bị tử hình- người cho chữ, quản ngục- người xin chữ. Cảnh cho chữ xưa nay chưa từng có. Mối quan hệ éo le, đầy trớ trêu giữa hai con người tri âm, tri kỉ.

- “Chí Phèo”: Tình huống bi kịch: mâu thuẫn giữa khát vọng sông lương thiện và không được làm người lương thiện.

Câu 4:

Nét đặc sắc trong nghệ thuật của các truyện:

- Hai đứa trẻ:

+ Truyện không có truyện- truyện trữ tình. Cốt truyện đơn giản.

+ Tác giả chủ yếu đi sâu vào tâm trạng và cảm giác của nhân vật.

+ Nghệ thuật tả cảnh, nghệ thuật miêu tả sự đối lập ánh sáng và bóng tối.

+ Ngôn ngữ giàu giản dị, nhẹ nhàng, tinh tế…

- Chữ người tử tù

+ Nguyễn Tuân đã khắc họa thành công hình tượng Huấn Cao- một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Qua đó, nhà văn thể hiện quan niệm về cái đẹp, khẳng định sự bất tử của cái đẹp và bộc lộ thầm kín tấm lòng yêu nước => bút pháp lí tưởng hóa cảm cảm hứng lãng mạn.

+ Tạo dựng tình huống truyện độc đáo

+ Tạo không khí cổ kính, trang trọng: sử dụng nhiều từ hán việt, từ cổ

+ Sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ giàu tính tạo hình => sự đối lập gay gắt giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác, tính cách và hoàn cảnh.

- Chí Phèo:

+ Cốt truyện hấp dẫn, li kì. Cách kể, tả linh hoạt, biến hoá. Xây dựng nhân vật điển hình, miêu tả và phân tích tâm lí nhân vật.

+ Cách dẫn dắt tình tiết linh hoạt (không theo trật tự thời gian) mà vẫn rành mạch sáng sủa, chặt chẽ.

+ Giọng văn biến hóa, không đơn điệu. Giọng điệu trần thuật này là những đóng góp quan trọng của Nam Cao trong quá trình hiện đại hóa của thể loại truyện ngắn hiện đại Việt Nam.

+ Ngôn ngữ đặc biệt tự nhiên, sống động, sử dụng khẩu ngữ quần chúng một cách triệt để, mang hơi thở của đời sống.

+ Giọng điệu trần thuật có sự kết hợp hài hòa giữa đối thoại với độc thoại, giữa lời gián tiếp và lời nửa tiếp.

Câu 5:

a) Những nét chính trong nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng thể hiện qua đoạn trích “Hạnh phúc của một tang gia” đó là:

- Xây dựng những chi tiết mâu thuẫn trào phúng ấn tượng trong đoạn trích:

+ cảnh đám ma được tổ chức rất đông rất to

+ cảnh cậu Tú tân bắt mọi người phải đóng kịch để chụp hình

+ cảnh ông Phán oặt người đi, khóc thảm thiết trên tay Xuân

- Nghệ thuật xây dựng và phát triển các tình huống

- Giọng văn mỉa mai, sử dụng thủ pháp cường điệu, nói quá được sử dụng một cách linh hoạt: tác giả gọi nhà đám là bầy con cháu chí hiếu chỉ nóng ruột đem chôn cho chóng cái xác chết của cụ tổ…, hoặc tác giả miêu tả : “Thật là một đám to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu…!”

- Ngòi bút miêu tả sắc sảo: Những nét riêng của từng nhân vật trong đoạn trích.

b) Qua tác phẩm này, tác giả đã vạch trần sự thật xấu xa của xã hội thượng lưu, được gọi là "Âu hóa", "văn minh", đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị đang chạy theo lối sống nhố nhăng đồi bại đương thời":

     - Bằng một giọng văn mỉa mai và thủ pháp cường điệu hóa, Vũ Trọng Phụng đang giễu cợt những kẻ đang tổ chức và tham gia đám tang.

     - Điệp khúc "Đám cứ đi" có ý nghĩa hài hước đặc biệt. Miêu tả cái "đám cứ đi", nhà văn muốn phơi bày tất cả sự giả dối, bịp bợm, vô đạo đức của cái xã hội thượng lưu đang hãnh tiến, đắc chí.

     - Bên cạnh giọng văn mỉa mai, Vũ Trọng Phụng đã dựng lên 1 loạt các chân dung biếm họa bao gồm các cá nhân, tập thể. Kết hợp với sự tương phản tạo nên cái nghịch dị, làm bật lên tiếng cười trào phúng.

Qua đó, đoạn trích cũng gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh về sự tha hóa đạo đức của một bộ phận người dân trong xã hội Việt Nam trước đây,

Câu 6:

Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Huy Tương được thể hiện rất rõ nét qua việc triển khai và giải quyết mâu thuẫn kịch trong đoan trích “Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài”. Đó là việc thông qua hai mâu thuẫn chính:

- Mâu thuẫn thứ nhát là mâu thuẫn giữa bọn tham quan, bạo chúa với người dân lao động. Bọn tham quan, bạo chúa sống xa hoa, không chăm lo đến quyền lợi chính đáng của nhân dân để nhân dân phải sống cuộc sống cơ cực, lầm than (mâu thuẫn càng trở nên căng thẳng khi Lê Tương Dực cho xây Cửu Trùng Đài). Vì vậy quân phiến loạn do Trịnh Duy Sản cầm đau đã nổi dậy giết chết bạo chúa Lê Tương Dực và đốt Cửu Trùng Đài.

=> Vũ Như Tô đã đứng trên quan điểm của nhân dân để giải quyết mâu thuẫn.

- Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa người nghệ sĩ Vũ Như Tô và nhân dân lao động. Để thực hiện lí tưởng của mình Vũ Như Tô đã rơi vào tình trạng đi ngược lại với quền lợi trực tiếp của nhân dân. Mâu thuẫn này dẫn tới bi kịch của Vũ Như Tô (Vũ Như Tô bị giết, Cửu Trùng Đài bị đốt). Đây là mâu thuẫn này  được giải quết một cách dứt khoát, việc đốt Cửu Trùng Đài, giết Vũ Như Tô không thể giúp nhân dân chấm dứt nỗi thống khổ, lầm than và Vũ Như Tô đến chết vẫn không tin là mình có tội.

=> Vũ Như Tô cho đến lúc chết vẫn không nhận ra sai lầm của mình, vẫn đinh ninh là mình vô tội. Ông không đứng về phía Lê Tương Dực nhưng ông lại muốn mượn uy quyền và tiền tài của hắn để thực hiện hoài bão và ước mơ của mình, và vì thế vô tình gây nên nỗi khổ cho nhân dân. => Nghệ thuật chân chính phải chú ý đến con người, người nghệ sĩ khi làm nghệ thuật phải chú ý đến điều đó.

Câu 7:

Trong “Đời thừa” Nam Cao phát biểu: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, biết khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”.

         Nam Cao đã gửi gắm những suy tư và những quan niệm sâu sắc của mình về nghề văn và sứ mạng của người cầm bút chân chính. Bản chất của văn chương là sáng tạo, không chấp nhận sự rập khuôn và sự dễ dãi. “Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Đó là những yêu cầu thật là gắt gao, nghiêm túc đối với người sáng tác văn chương. Ý kiến nêu trên khẳng định yêu cầu hết sức quan trọng đối với tác phẩm văn chương và các tác phẩm nghệ thuật.

- Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một kiều mẫu đưa cho là cách diễn tả hình ảnh, ám chỉ thứ văn chương đẽo gọt, khuôn sáo, hời hợt, một thứ văn chụp ảnh hoặc minh họa giản đơn.

- Nhà văn phải là người có cái nhìn nhạy bén và sâu xa hơn người để phát hiện những vấn đề sâu kín ở bề sâu của đời sống để đem đến cho người đọc những khía cạnh mới, những vấn đề mới đầy bất ngờ, sâu sắc, thú vị, có khả năng đánh thức vào trí tuệ trái tim, làm phong phú tâm hồn, thậm chí có thể làm thay đổi những thói quen, những nếp nghĩ thông thường.

- Đó là một sự sáng tạo mang đậm nét bản sắc của chủ thể nghệ sĩ, mang dấu ấn tinh thần của cá nhân nhà văn từ cách nhìn, cách nghĩ đến cách viết

=> Đây là ý kiến hoàn toàn đúng, phản ánh bản chất của nghệ thuật, đã được nhiều người thừa nhận và khẳng định theo những cách diễn đạt khác nhau. Ở Nam Cao, đó không phải là một nhận thức lí luận được nhập cảng mà là một quan niệm được hình thành từ một cây bút có trách nhiệm, có tài năng, luôn luôn băn khoăn trăn trở về nghề và đã trở thành một ý thức thường trực, thành máu thịt, thành cảm hứng sáng tạo chi phối ngòi bút trong hầu hết các sáng tác của mình. Trong các sáng tác về đề tài người nông dân của ông trước cách mạng tháng Tám thì ông không đi lại lối mòn của các nhà văn trước đó, mà ông đi sâu vào việc khá phá quá trình con người bị tha hóa, bị đè nén trở thành những tên lưu manh hóa. Từ đó ông đặt ra các vấn đề có ý nghĩa xã hội và nhân sinh. Chính điều đó đã làm nên nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Nam Cao, nó rất khác so với các nhà văn hiện thực trước đó.

Câu 8:

Khát vọng hạnh phúc của Rô-mê-ô và Giu- li-ét trong đoạn trích “Tình yêu và thù hận” là:

- Tình yêu của hải người hết sức trong sáng và được diễn ra trên cái nền của thù hận. . Tính chất hận thù của hai dòng họ được phản ánh trong lời thoại của Rô-mê - ô ba lần và Giu - li - ét năm lần.

- Thù hận không xuất hiện như một thế lực cản trở tình yêu mà thù hận chỉ hiện qua dòng suy nghĩ của các nhân vật, song không phải là động lực chi phối hành động của nhân vật.

- Trong nội tâm của cả hai nhân vật không hề có sự mâu thuẫn giữa yêu và thù hận. Không hề có sự đắn đo giữa yêu hay không yêu mà chỉ có sự băn khoăn lo lắng về những trở ngại mà tình yêu của họ phải đối diện. Thù hận bị đẫy lùi chỉ còn lại tình đời, tình người bao la, phù hợp với lí tưởng nhân văn.

- Cuộc độc thoại và đối thoại của đôi trai gái đã thể hiện tình yêu trong sáng và mãnh liệt của họ. Đó là một mối tình đẹp, say đắm và dũng cảm.

- Lời thề hẹn của họ đã chứng tỏ những thế lực và xiềng xích của những hủ tục, thành kiến của mối quan hệ phong kiến đã dần mất tác dụng. Nó đang bị phá bỏ hoặc tự tan rã. Thời đại trung cổ đã qua đi, con người đã được giải phóng khỏi những quy tắc hà khắc vô lí. Bút pháp lãng mạn và chất liệu hiện thực đã tạo nên một mối tình đẹp của  Rômêô và Giuliet. Đó là mối tình thể hiện tư tưởng nhân văn cao cả của văn học phương Tây thời Phục hưng. 

Giaibaitap.me

Góp ý - Báo lỗi

Vấn đề em gặp phải là gì ?

Hãy viết chi tiết giúp Giaibaitap.me

Bài giải mới nhất

Bài giải mới nhất các môn khác